Kích thước tối đa 6.7 cm nhưng có thể lớn đến 8 cm trong môi trường nuôi dưỡng. Số lượng gai vây lưng (tia cứng): 11 - 17; tia vây lưng (tia mềm): 5 - 10; gai vây hậu môn: 7 - 22; tia vây hậu môn: 9 - 15; đốt sống: 27 - 29. Đuôi hình chiếc nĩa, ở cá đực hai thuỳ đuôi kéo dài; viền ngoài gần gốc đuôi có hình răng cưa nhọn; có một chấm xanh viền đỏ nổi bật trên nắp mang; ở mẫu vật, trên thân có 7-11 sọc nổi bật và đậm màu trên nền vàng nhạt (ở cá thể sống là những sọc xanh trên nền thân màu hanh đỏ); một vạch đen kéo dài từ miệng qua mắt đến chấm xanh trên nắp mang, đầu và lưng có nhiều chấm đen, khe và viền vảy nhạt màu hơn vảy Sống ở miền nhiệt đới, trong môi trường nước ngọt, gần bề mặt, độ pH: 6.0 - 8.0; độ cứng dH: 5 - 19, nhiệt độ: 16 - 26°C. Cá đực thường hung dữ và đá nhau tranh giành lãnh thổ, nhất là trong mùa sinh sản. Chúng chọn nơi yên tĩnh để nhả bọt và dẫn dụ cá cái đến để đẻ trứng, tổ bọt thường có bán kính xấp xỉ 15 cm, số lượng trứng có thể lên đến 300, sau khi thụ tinh trứng được cá bố mẹ nhả lên tổ bọt và cá đực tiếp tục chăm sóc trứng. Trứng nở sau 1 ngày. Sau 3 ngày thì cá con bơi lội tự do được. Thức ăn của cá bột là những vi sinh vật có sẵn trong nước. Cư ngụ ở những vùng nước trũng, từ vùng bụi hoang ven bờ hay vũng nước tù ở gần sông, suối cho đến những con kênh dẫn nước bên cạnh những ruộng lúa. Ở Việt Nam, loài này còn xuất hiện ở vùng cao nguyên thượng nguồn của sông Đồng Nai. Chúng có thể sống nơi nước đục và nghèo ô-xy hoà tan (nhờ khả năng thở trực tiếp). Thức ăn bao gồm tất cả những loài động vật thuỷ sinh kích thước nhỏ kể cả cá nhỏ