Cây nhỡ mọc đứng hay dây leo. Lá có 5 - 7 lá chét, phiến thuôn tới hình ngọn giáo, dài 10 - 15cm, rộng 3 - 5cm, gốc tròn, hình tim hoặc gần hình khiên; đầu có mũi nhọn tù, có khi lõm; gân bên 5 - 8 đôi; cuống lá dài 5mm.Chùy hoa ở nách lá và ở ngọn dài 10 - 40cm, có lông mềm màu gỉ sắt. Hoa có cuống; lá đài dài 3 - 4mm, có lườn, phủ lông dày ở phía ngoài, thưa lông ở phía trong; cánh hoa dài 5 - 7mm, có lông mềm ở phía ngoài; nhị 10 xếp 2 dãy; bầu có lông. Quả đại không cân đối, dài 2 - 3,5cm, rộng cỡ 1,5cm, thon lại ở gốc thành cuống cỡ 4mm, có lông mềm ở mặt trong; hạt có mồng bên chia 2 thùy khá phát triển.Loài của Việt Nam, Lào, Campuchia, Ấn Độ, Nam Trung Quốc và bán đảo Mã Lai. Ở nước ta có gặp từ Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hòa Bình, Ninh Bình, vào đến Kiên Giang (đảo Phú Quốc).Cây mọc trong rừng rậm tới độ cao 1000m.Ra hoa tháng 3 - 4, có quả từ tháng 9 đến tháng 2.Đồng bào dân tộc ở vùng Nha Trang tỉnh Khánh Hòa lấy vỏ cây để ăn.Ở Quảng Tây (Trung Quốc), thân và lá được dùng làm thuốc trị cảm mạo