Cây thảo, sống nhiều năm; cao 15-25 cm. Thân rễ tròn, có đốt, phân nhánh; mang nhiều rễ con, vò nát có mùi thơm đặc biệt. Lá gồm 2-5 cái, lá mọc so le, ó cuống màu nâu tím, có lông ngắn. Phiến lá dày, hình tim nhọn đầu, 11-14 x 8-10 cm; mặt trên xanh, có thể có đốm màu xám trắng, mặt dưới nhạt màu hơn, phủ lông dày; mép nguyên. Hoa 1-3 cái, mọc riêng lẻ ở kẽ lá hay ở ngọn; cuống ngắn, có lông, thường mọc rủ xuống. Lá bắc 1-2 cái, sớm rụng. Bao hoa màu nâu nhạt, họng hơi vàng, có các vạch màu nâu đỏ; chia thành 3 thuỳ hình bầu dục, đầu kéo dài và nhọn dần. Nhị 12, chỉ nhị ngắn, trung đới hình mác cong vượt lên trên bao phấn. Vòi nhuỵ hình ống, ngắn bằng 1/2 bao phấn, đỉnh tách ra thành 6 đầu nhuỵ. Quả phát triển trong bao hoa tồn tại, màu lục nhạt phớt tím, có những hàng lông ngắn mọc dọc theo quả. Hạt nhỏ, màu nâu đen, nhẵn. Sinh học, sinh thái: Mùa hoa tháng 3-5, quả tháng 5-7 (8). Hạt phát tán gần, có nhiều cây con mọc xung quanh gốc cây mẹ. Cây đẻ nhánh khoẻ, thân rễ bò lan tạo thành khóm lớn. Các nhánh con có thể tách ra để trồng. Cây ưa ẩm, ưa bóng; thường mọc thành đám dọc theo bờ khe suối dưới tán rừng kín thường xanh ẩm trên núi cao hoặc còn sót lại ở một vài điểm trong rừng trồng Thảo quả ở Hoàng Liên Sơn, ở độ cao từ 1400-1800 m.