Cây nhỏ cao 1,5m, phân nhánh, rất nhẵn trừ các phần non, với nhánh rất mềm. Lá thuôn – mũi mác, thành góc ở gốc, có mũi ngắn, nhọn hay tù ở đầu, có mép phẳng, hơi lượn sóng, mỏng như giấy hay gần như dạng màng, dài 5 - 12cm, rộng 1 - 2,5cm. Hoa màu hồng, xếp gần thành tán, chừng 2 - 12 cái một trên một trục chính rất mảnh, dài 2,5cm, ở nách lá.Quả hình cầu, đường kính khoảng 4mm, có mũi cứng, với 5 cạnh dọc to, giảm dần khi chín, màu đen.Phân bố ở Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam, Malaixia và Inđônêxia. Ở Việt Nam có gặp từ Lào Cai, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Ninh Bình vào Nghệ An và Gia Lai.Cây mọc trong rừng tạp ở khe núi, nơi râm.Ra hoa từ tháng 5 đến tháng 8, có quả từ tháng 7 cho đến tháng 2 năm sau.Lá được dùng pha nước uống thay trà và dùng nấu ngậm trị đau răng, hoặc đắp trị đau mình mẩy.Ở Trung Quốc, toàn cây dùng trị đòn ngã, gãy xương.